tab

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

CHÚC MỪNG ĐẠI LỄ KỶ NIỆM BÁCH CHU NIÊN XÂY DỰNG NHÀ THỜ GIÁO XỨ NAM LỖ (TỈNH THÁI BÌNH) (1911 – 2011)

CHÚC MỪNG ĐẠI LỄ KỶ NIỆM BÁCH CHU NIÊN
XÂY DỰNG NHÀ THỜ GIÁO XỨ NAM LỖ (TỈNH THÁI BÌNH)
(1911 – 2011)

      
           Chỉ còn thấm thoát gần ba tuần nữa là đến Tuần Đại Phúc và Lễ tạ ơn mừng kỷ niệm 100 năm xây dựng Ngôi Thánh đường Giáo xứ Nam Lỗ (Tỉnh Thái Bình), quê hương muôn đời yêu dấu của những người con đã được sinh ra lớn lên và sống tại nơi này. Con là hàng cháu chắt của quê hương mình, vì con có Tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã từng sống và làm việc sinh hoạt tại xứ đạo thân thương này. Nỗi niềm thao thức đón mừng ngày lễ trọng đại luôn canh cánh bên con. Hiên giờ trên trang website của giáo xứ đã đăng thơ mời những người con của Nam Lỗ ở khắp mọi miền về dự lễ, do Cha chánh xứ và Ban tổ chức gởi đi khắp mọi nơi có người thân đang cư trú.
           Từ miền Nam xa xôi với công tác ngổn ngang trăm bề, không biết con có sắp xếp để về dự lễ được hay không! Nhưng dù sao, con cũng xin phép được viết đôi dòng này gởi về Quê Mẹ với ước mong được góp phần nhỏ bé vào việc chuẩn bị thật công phu và chu đáo mừng Đại lễ mà Cha chánh xứ và Quý vị đang nô nức hướng  đến

Năm xưa trên đát Thái Bình
Họ giáo Nam Lỗ thành hình hân hoan
Giáo dân hiệp nhất kết đoàn
Phụng thờ Thiên Chúa vô vàn thiết tha
Yêu thương lan tỏa muôn nhà
Nhiều người tin đạo mặn mà tình thân
Họ giáo tiến triển dần dần
Mở mang nước Chúa muôn phần vinh quang
Ngày thêm rộng lớn mênh mang
Giáo xứ thăng tiến an khang vững bền
Đan tay chung sức đắp nền
Góp công góp của dựng nên Thánh đường
Đoàn chiên từ khắp muôn phương
Quy vào hợp sức chung đường về đây
Hồng ân chan chứa tràn đầy
Nhà thờ hoàn tất, xum vầy tình thân
Thời gian đổi mới canh tân
Nhà Chúa mở rộng, từng phần chỉnh trang
Hôm nay đẹp đẽ huy hoàng
Trăm năm đã thấy rỡ ràng ơn Cha
Niềm vui hớn hở hoan ca
Đoàn con vui vẻ thiết tha nghĩa tình
Tháng năm mong đợi an bình
Mừng vui đan kết thắm tình yêu thương
Xa xôi cách trở dặm trường
Hướng về Nam Lỗ Thánh đường trăm năm

           Con xin kính chúc Đại lễ mừng Nhà thờ Nam Lỗ một trăm tuổi đạt được kết quả tốt đẹp và tràn đầy hồng ân Chúa ban

                                                      
                                                           Vincente Maria Hoài Thanh  (29/4/2011)

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

NHỮNG DÒNG HỒI KÝ VIẾT VỀ XỨ ĐẠO THÁNH TÂM QUÊ MÌNH


NHỮNG DÒNG HỒI KÝ
VIẾT VỀ XỨ ĐẠO THÁNH TÂM QUÊ MÌNH
(Nhân dịp kỷ niệm 50 năm
thành lập Giáo xứ Thánh Tâm – 07/7/1961 – 07/7/2011)

Gia đình tôi đến định cư tại Giáo họ Hợp Tiến, Giáo xứ Thánh Tâm vào những năm đầu của thập niên 60, lúc đó tôi còn nhỏ. Cha Mẹ tôi có một ngôi nhà lá đơn sơ với vài công ruộng. Nghe Cha tôi kể lại thời gian này còn khó khăn vất vả lắm, hàng ngày phải ra ruộng khai hoang chặt cây làm cỏ để có đất canh tác trồng lúa, còn đường xá đi lại thì nhỏ hẹp, lầy lội nhất là về mùa mưa; rồi hằng năm vào khoảng tháng 9, 10 và 11, nước lũ từ đầu nguồn sông Cửu Long tràn về: ruộng đồng, vườn tược, đường đi lối lại, nhà cửa đều một màu trắng toát của biển nước mênh mông; muốn đi từ nhà này sang nhà khác phài dùng tới xuồng, ghe hay thuyền, có khi dùng bè được kết lại bằng những cây chuối chông chênh chồng chềnh, đứng không khéo là té ngay xuống nước. Nhưng bù lại thì cá tôm rất nhiều, chỉ cần cầm cần câu thả xuống nước nửa tiếng đồng hồ là có thể bắt được vài chục con cá ngon lành; còn nếu giăng lưới, đặt lờ, đơm đó thì bắt được nhiều cá hon. Tất cả đồ ăn thức uống đều vận dụng từ “cây nhà lá vườn”, chẳng có thời gian đi chợ vì bận rộn công việc, hơn nữa chợ cách xa nhà gần mười cây số, thôi thì có sao dùng vậy, thế mà ai cũng khỏe mạnh, chẳng ốm đau bệnh tật gì
            Nói về việc học hành của bọn trẻ chúng tôi lúc bấy giờ thì thật là vui, học ngay tại nhà tôi do chú tôi dạy, bàn ghế thuộc loại “thập cẩm” của đứa nào đứa ấy mang tới, lớp học khoảng mười mấy đứa, chúng tôi học chủ yếu là các môn tập viết, chính tả và làm toán cộng trừ nhân chia. Giờ ra chơi chúng tôi ra sân chơi cù, đánh khăng, bắn bi hay chơi các trò chơi dân gian như: bịt mắt bắt dê, rồng rắn lên mây, mèo đuổi chuột... hoặc chạy ra sau vườn nô giỡn rón chuồn chuồn, bắt bướm; có hôm mải đuổi bắt bướm, tôi té nhào xuống ao chìm lỉm, mãi sau mới ngoi lên được, mặt tím ngắt không còn giọt máu. Rồi những hôm không thuộc bài bị chú tôi bắt nằm lên bàn đánh cho vài roi, tuy không đau lắm thế mà nhờ vậy tôi biết chăm chỉ học tập hơn.
           Sau đó vài năm Cha xứ mở trường tư thục La Vang, tôi cùng bọn trẻ rủ nhau đi học tại ngôi trường đó do các Sơ và quý Thầy cũng là giáo dân trong xứ phụ trách giảng dạy. Nhưng việc đi lại vất vả lắm vì nhà xa trường hơn 2 cây số, mỗi khi trời mưa thì càng khó khăn hơn vì đường trơn trượt, nhiều hôm chúng tôi té ngã dơ hết quần áo tập vở mà vẫn vui vẻ đến trường, lấy nước gột sơ qua rồi vào học, các Thầy cũng thông cảm và còn thương chúng tôi nhiều hơn nữa. Năm năm học ở bậc tiểu học, tôi cũng có khá nhiều bạn mà cho đến hôm nay tôi chẳng hề quên với biết bao kỷ niệm, chúng tôi chơi rất thân với nhau, xem nhau như anh chị em ruột trong gia đình, có gì cũng chia sẻ cho nhau, từ những đồ chơi, cái bánh, viên kẹo, cuốn tập, cây bút, giọt mực... Ngoài giờ học, chúng tôi còn đến nhà nhau chơi rất thân thiện và vui vẻ.
            Về mặt tinh thần phải kể tới phong trào thiếu Nhi Thánh Thể, tuy mới hình thành nhưng đã thu hút được rất nhiều thiếu nhi tham gia, lúc đầu chỉ hình thành ở khu trung tâm của Giáo xứ (Khu Thánh Tâm), còn ở hai khu Mẫu Tâm và Hợp Tiến vì ở xa nên chưa có phong trào này. Riêng tôi rất thích sinh hoạt tập thể nên xin vào thiếu nhi và được Quý Dì sắp xếp vào đội thiếu nhi khu Quỳnh Phúc do anh Yêu làm đội trưởng. Từ ngày vào thiếu nhi tôi được học tập về Thánh kinh, Đời sống Tôn giáo, Giáo lý... nhất là sáng sớm đi lễ, làm Bó hoa thiêng, được sinh hoạt trò chơi, băng reo, tập múa hát. Từ đó tôi khôn lớn hơn, mạnh dạn hơn. Vài năm sau phong trào thiếu nhi được mở rộng ra toàn xứ, tôi từ một đội viên đã tham gia sinh hoạt trước nên được cử làm đội trưởng của thiếu nhi khu Hợp Tiến, được đi huấn luyện về khóa Tông đồ đội trưởng được học tập từ các anh chị huynh trưởng để về sinh hoạt lại cho các bạn thiếu nhi trong khu.
            Được sự quan tâm của Cha chánh xứ, Quý Dì và quý Thầy giúp xứ, giới thiếu nhi ngày một lớn mạnh, khu Hợp tiến lúc này đã có nhiều đội thiếu nhi thuộc đủ các ngành ấu nhi, thiếu nhi và nghĩa sỹ. Có lẽ là “con chim đầu đàn” nên tôi sớm được cất nhắc lên làm huynh trưởng và được đi huấn luyện và giao lưu ở nhiều nơi như Giáo xứ Tân chu kinh 5A, Giáo xứ Thạnh An, Giáo xứ Vạn đồn B1... Tôi rất tích cực và hăng say phục vụ trong phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể lúc bấy giờ. Ngoài thời gian đi học một buổi trong ngày, thời gian còn lại tôi tập trung vào việc nghiên cứu, học tập các tài liệu về thiếu nhi, nhất là về nghiêm tập và trò chơi sinh hoạt với phần mật thư, semapho, nút dây, dấu đường và morse... Năm năm sau, tôi tham gia Ban trị sự xứ đoàn và vinh dự được giữ chức vụ xứ đoàn trưởng giới thiếu nhi  tại Giáo xứ Thánh Tâm.
           Tôi vẫn nhớ như in những lần tổ chức cắm trại vào dịp Lễ Noel hay hội chợ vui xuân, biểu diễn văn nghệ vào dịp tết nguyên đán, tết trung thu... vui biết bao không thể nào kể xiết cho được, vui nhất là đốt lửa trại, tha hồ mà ca hát nhẩy múa tưng bừng, rồi đến việc tham gia trò chơi lớn, đi tìm mật thư trong đêm tối, chúng tôi phải nắm tay, níu áo nhau để khỏi bị thất lạc hoặc đi trên cầu bằng dây bắc ngang sông, ai khéo lắm mới qua được, phần nhiều là rớt xuống sông, ướt át, lạnh lẽo, thế mà cứ thích chơi ... Nhiều lúc nhớ lại tôi cảm thấy tiếc nuối nhớ nhớ thương thương  thật  nhiều và thật là nhiều.
           Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập giáo xứ (07/7/1961 – 07/7/2011), mặc dù không còn ở tại Giáo xứ Thánh tâm nữa, vì gia đình tôi đã chuyển đi nơi khác nhưng lòng tôi luôn hướng về Giáo xứ, nơi tôi đã được học tập, sinh hoạt thiếu nhi để được khôn lớn và trưởng thành. Mỗi dịp trở về quê hương, tôi thường đến nhà thờ để cầu nguyện và tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và các Vị Tiền bối của Xứ đoàn trong đó có Thầy Phạm văn Lịch (Thầy Đích) vừa là Thầy dậy tôi những năm ở tiểu học và cũng là Sư huynh trong giới thiếu nhi mà tôi đã được may mắn sinh hoạt nhiều năm, Thầy đã trau dồi cho tôi rất nhiều về kiến thức và đời sống đạo đức.

             Giáo xứ Thánh Tâm ngày nay đã thay đổi rất nhiều so với ngày tôi còn ở đó, nhà thờ giáo xứ và Giáo khu đã được xây dựng lại to lớn và khang trang rộng rãi hơn, trường học được sửa chữa nâng cấp, đường xá được mở rộng, bê tông hóa từ đầu xứ đến cuối xứ, xe bốn bánh đi lại dễ dàng thuận tiện; điện ánh sáng và hệ thống truyền thanh đã phủ kín toàn ấp, nhiều cây cầu tre gỗ được thay thế bằng cầu xi măng, hầu như nhà nào cũng có điện thoại và nhiều nhà được kết nối mạng internet. Các giới, hội đoàn trong đó có Thiếu Nhi Thánh Thể hoạt động rất tốt, có cả chiều rộng lẫn chiều sâu, ngoài việc nâng cao đời sống đạo đức còn làm công tác từ thiện bác ái, giúp đỡ gia đình khó khăn, người già lão, thăm hỏi chăm sóc kẻ đau ốm bệnh tật. Tinh thần đoàn kết yêu thương được mở rộng , tình làng nghĩa xóm, khu xứ, nhà nhà được điểm son khởi sắc.
             Con xin được hiệp hoan chung vui với  Quý Cha, Quý chức, Quý cụ, Quý ông bà, anh chị em nhân dịp kỷ niệm trọng đại này . nguyện xin Thiên chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và toàn thể Các Thánh ban muôn vàn hồng ân xuống cho Giáo xứ, Quý Cha và Quý vị .

Quê tôi Xứ đạo Thánh Tâm
Thân thương trìu mến, vững tầm vươn cao
Yêu thương chan chứa dạt dào
Đoàn kết thân ái, dâng trào hân hoan
Cuộc sống tốt đẹp vô vàn
\Kính Chúa yêu nước dâng trào muôn  nơi
Đức tin sống động sáng ngời
Đạo đức thánh thiện, cuộc đời đẹp tươi
Giáo dân hớn hở mỉm cười
Giáo xứ xây dựng gấp mười lần qua
Hội đoàn, các giới hoan ca
Tông đồ bác ái thật là  hăng say
Thánh lễ sáng tối hằng ngày
Tham dự sốt sắng, tràn đầy niềm tin
Chắp tay khấn nguyện cầu xin
Giáo xứ thăng tiến, muôn tim nhịp nhàng
Năm mươi năm rất huy hoàng
Cuộc sống tươi đẹp thiên đàng trần gian
Ngày vui hiệp nhất kết đoàn
Cha con mãn nguyện dâng tràn niềm vui.

                               VICENTE MARIA HOÀI THANH (Người con của Giáo xứ)

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

SỐNG TINH THẦN TUẦN THÁNH


SỐNG TINH THẦN TUẦN THÁNH

 Những ngày cuối của Mùa Chay là Tuần Thánh, Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất trong năm phụng vụ của Giáo Hội, để người Kitô hữu tưởng niệm những biến cố trong Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

  Khởi đầu Tuần thánh là Chúa nhật Lễ Lá với việc kỷ niệm Chúa Giêsu được những người dân tốt lành và các trẻ em đón rước một cách long trọng vào Thành Thánh Giêrusalem. Chúa nhật Lễ Lá có nghi thức làm phép lá (lá dừa), những người giáo dân sẽ đem lá dừa đã được làm phép về để trên bàn thờ, nhắc nhở mọi người về những Ngày Thánh trong Tuần thương Khó.

  Ba ngày thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy Tuần Thánh được gọi là Tam nhật Phục sinh. Đó là những ngày Thánh để kỷ niện Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu nhằm cứu chuộc cho nhân loại.
 - Thứ năm Tuần Thánh: kỷ niệm việc Chúa Giêsu dùng bữa cơm tối cuối cùng với mười hai môn đệ,  trước khi chia tay các ông để đi nộp mình chịu khổ hình. Bữa ăn này còn được gọi là “Bữa ăn tình thương”; vì trong bữa ăn này , Chúa Giêsu đã thiết lập “Bí tích  Thánh Thể” để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu bằng chính Mình và Máu Thánh của Người và “Bí tích Truyền Chức Thánh” để thiết lập chức Linh mục thừa tác. Cũng trong bữa ăn này, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để dạy cho các ông bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn được thể hiện qua lời Chúa nói: “Như Thầy đã rửa chân cho chúng con thì chúng con cũng hãy rửa chân cho nhau”

  - Thứ sáu Tuần Thánh: là ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết để đền tội cho nhân loại và mở đường cứu rỗi cho mọi người. Thứ sáu Tuần Thánh không cử hành Thánh lễ mà có suy ngắm Đàng Thánh Giá và cử hành Tưởng niệm Cuộc Thương Khó  của Chúa Giêsu.

                      - Thứ bẩy Tuần Thánh: Giáo Hội ở bên mộ Chúa để suy ngắm Cuộc tử nạn của Người. Việc Ngài xuống mồ biểu hiện tính chất phổ quát ơn cứu rỗi của Người và cho chúng ta cùng được sống lại với Người
                          Canh thức Phục sinh: Không có khoảnh khắc nào khác trong năm phụng vụ lại có ý nghĩa cho bằng Đêm canh thức Phục sinh này. Đây là đêm mẹ của mọi đêm. Từ trong màn đêm âm u đen tối, một ngọn lửa bùng cháy lên, ngọn lửa này được dùng để thắp cho Nến phục Sinh và sau đó được nối tiếp thắp sáng cho hàng trăm cây nến khác. Chuông nhà thờ bắt đầu đổ liên hồi, hoa đèn nến rực rỡ trên Cung Thánh, bài hát Alleluia được cất lên. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết
                                                                    HOÀI THANH (Sưu tầm)
                       

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI(mẹ bạn Sinh)


TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI
Cha Phú đến thăm lúc mẹ còn sống
 
Lễ giỗ
     Thế là Mẹ của bạn Thiên Sinh đã qua đời được ba năm rồi, Cụ mất sau Mẹ mình một năm. Các Cụ cứ lần lượt ra đi vào cõi vĩnh hằng, để lại niềm thương nhớ cho con cháu. Lúc các Cụ còn sống, đôi khi anh em mình lại thiếu trách nhiệm và bổn phận làm con như ít năng lui tới thăm hỏi tâm sự với các Ngài để các Ngài buồn lòng nhưng không nói ra; đến khi các Ngài nằm xuống, anh em mình mới cảm thấy trống vắng và thương nhớ khôn nguôi. Nhưng dù sao chúng ta vẫn phải chấp nhận quy luật tự nhiên của Tạo hóa: “Sinh – lão – bệnh – tử”. Hôm nay các Ngài đã mồ êm mả đẹp, thân xác đã hòa vào lòng đất, chỉ còn lại tấm ảnh trên bàn thờ để ngày ngày con cháu thắp nhang tưởng nhớ.
            Trong thân tình là bạn học cùng lớp với nhau ngày xưa, mình và các bạn đến dự Lễ giỗ Cụ, mặc dù phải đi môt đoạn đường dài gần 40 km nhưng mình thấy không thể vắng mặt được, mình kính trọng Cụ như Mẹ mình. Cụ đã có công sinh thành dưỡng dục và chăm sóc lo lắng cho các con cháu được công thành danh toại; các anh chị của bạn Sinh đều có công ăn việc làm và yên bề gia thất, riêng bạn Sinh nhờ ân đức của Cha mẹ đã thành đạt trên con đường sự nghiệp, hiện nay bạn là người thầy thuốc ngày đêm chăm lo sức khỏe cho nhân dân, bạn lại may mắn hơn anh em là có vợ đẹp con khôn, các cháu đều chăm ngoan học giỏi và khỏe mạnh, bạn Sinh còn tham gia công tác tại giáo xứ và đang phụ trách quản trị viên trang Blog của nhà thờ Cần xây. Mình nghĩ cuộc sống hiện nay của bạn Sinh thật ấm êm hạnh phúc
            Lễ giỗ mãn tang của Mẹ bạn Sinh được tổ chức một cách trang trọng và có sự chuẩn bị thật chu đáo từ những ngày trước. Ngay ngày Lễ giỗ, từ sáng sớm đã có những người thân từ những nơi xa đến tham dự, đến 9 giờ 30  mọi người đã đến đông đủ và vào trong Thánh đường Tu viện Thánh Gia để tham dự Thánh lễ, có Quý Cha đến dâng lễ cùng với Quý Thầy, Quý Dì, bà con giáo dân trong thân bằng quyến thuộc và bạn bè thân thiết. Sau Thánh lễ là tiệc giỗ đươc tổ chức tại hội trường Tu viện, có sự hiện diện của tất cả những người đã dự Thánh lễ và nhiều vị khách là đồng nghiệp với bạn Sinh hoặc do công tác riêng nên đến sau. Bạn Sinh thật khéo léo sắp xếp để mình và các bạn ngồi chung bàn với Quý y bác sỹ thuộc bệnh viện mà Bạn Sinh đang công tác. Lần này được gặp các Bậc hiền tài, mình và các bạn cố gắng hòa nhập... Thật là may mắn chỉ qua đôi lời giới thiệu, bọn mình đã kịp thời bắt nhịp với Quý vị thuộc ngành “Lương y như từ mẫu”
            Tất cả mọi người cũng như con cháu ai cũng tin chắc rằng Mẹ Bạn Sinh đã được siêu thoát và đang được hưởng hạnh phúc trên Quê Trời, bởi vì lúc còn sinh thời, Cụ Maria đã có một đời sống hiền lành thánh thiện, Cụ luôn thể hiện tinh thần “Mến Chúa yêu người”, xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần kiến tạo quê hương xứ sở và sự giúp đỡ yêu thương những người xung quanh về tinh thần cũng như vật chất. Tấm gương sáng ngời của Cụ đã được nhiều người xa gần ca tụng và thành quả Cụ để lại là những người con cháu ai cũng thành nhân và thành danh
             Tưởng nhớ Người đã ra đi là bổn phận của tất cả những người còn sống , nhất là con cháu đối với ông bà cha mẹ, người thân trong gia đình gia tộc. Việc tưởng nhớ cũng không chỉ trong những ngày lễ giỗ mà phải thực hiện thường xuyên liên tục, làm được như vậy là thể hiện lòng tôn kính biết ơn đối với các Bậc đã sinh thành dưỡng dục để chúng ta có được như ngày hôm nay.
Tưởng nhớ Mẹ, kính nhớ Cha
Ghi lòng thảo hiếu mới là con ngoan
Ngày xưa Cha Mẹ lo toan
Cho con khôn lớn vẹn toàn ấm no
Ngày nay con nhớ tôn thờ
Công Cha nghĩa Mẹ bến bờ bao la 
Các bạn cùng lớp đến chia buồn ngày mẹ mất


Thánh lễ tại gia do cha Thịnh giáo xứ vinh Sơn Bình Dương


cha cố Minh làm phép trước khi đóng hòm


Cha Sơn viếng bà

Đưa mẹ Đến nhà thờ

Thánh lễ tiễn biệt mẹ

Cha Sơn làm phép tiễn biệt trước khi ra nghĩa trang  


Cha Huynh làm phép trước khi hạ huyệt
Mộ bà ngày giỗ
Con cháu ra mộ bà ngày giỗ
Thánh lễ giỗ

Lễ giỗ

                              HOÀI THANH (20 h đêm thứ bẩy 09/4/2011)

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

NGỌC THẠCH – XỨ ĐẠO QUÊ TÔI


NGỌC THẠCH – XỨ ĐẠO QUÊ TÔI
Ai về Cái Sắn quê tôi
Ngọc Thạch xứ đạo là nơi tuyệt vời
Nơi đây ấm áp tình người
Phúc âm sống động, sáng ngời niềm tin
Bao ngày ước nguyện cầu xin
Hôm nay hiện thực đã nhìn thấy đây
Nhà thờ mới được dựng xây
Khánh thành cung hiến tràn đầy hân hoan
Ước mong hiệp nhất kết đoàn
Giáo xứ vững mạnh, đầy tràn yêu thương 
Quê tôi đẹp đẽ vô vàn
Ruộng đồng bát ngát, ngút ngàn trời xa
Nơi đây cuộc sống hoan ca
Hài hòa, êm ấm, mặn mà mến thương
Quê tôi xứ đạo thân thương
An bình hạnh phúc, vấn vương lòng người
Giáo dân phấn khởi vui cười
Cùng nhau tô điểm đẹp tươi cuộc đời
Đức tin sống động sáng ngời
Tin Mừng tỏa rạng bằng lời yêu thương
Chung tay xây dựng Thánh đường
Đồng tâm hiệp sức, bốn phương một lòng
Từ lâu ước nguyện chờ mong
Ngôi nhà thờ mới đã xong hoàn thành
Cha con đón nhận ơn lành
Mừng công cung hiến, khánh thành hân hoan
Trước sau vẫn vẹn chu toàn
Mở rộng Nước Chúa, thêm đoàn chiên ngoan
Vui thay! Ngọc thạch kết đoàn
Tốt đời, đẹp đạo vô vàn thân thương 

                                                                   HOÀI THANH (15/4/2007)

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2011

HỎA NGỤC VÀ CÁC HÌNH PHẠT

HỎA NGỤC VÀ CÁC HÌNH PHẠT
Thánh nữ Maria Faustina Kowalska - tục danh Helena Kowalska - sinh ngày 25-8-1905 tại Glogowiec một làng nhỏ bên nước Ba Lan. Năm 20 tuổi Chị gia nhập dòng Đức Bà Từ Bi và lấy tên dòng là Maria Faustina. Vỏn vẹn 13 năm sau, Chị qua đời ngày 5-10-1938 tại Cracovia, hưởng dương 33 tuổi.

Sau đây là chứng từ của thánh nữ Maria Faustina Kowalska về sự hiện hữu của Hỏa Ngục và các hình phạt mà các linh hồn bị trầm luân phải chịu.

Hôm nay (một ngày trong tháng 10 năm 1936) dưới sự hướng dẫn của một Thiên Thần con được đưa vào vực thẳm của Hỏa Ngục.

Đây là một nơi bị giày vò lớn lao bởi chính cái mênh mông kinh khủng của nó. Sau đây là các hình khổ khác nhau mà con chứng kiến. Hình khổ thứ nhất tạo thành hỏa ngục chính là bị mất THIÊN CHÚA. Hình khổ thứ hai là bị lương tâm cắn rứt khôn nguôi. Hình khổ thứ ba là ý thức rằng số phận này sẽ đời đời kiếp kiếp không thay đổi. Hình khổ thứ tư là lửa cháy thấm vào tận linh hồn nhưng không thiêu hủy. Thật là một hình khổ khủng khiếp: lửa hoàn toàn thiêng liêng cháy lên từ cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA. Hình khổ thứ năm là tăm tối triền miên, ngột ngạt và mặc đầu tối thui như thế, các quỷ dữ và các linh hồn bị trầm luân vẫn trông thấy nhau và trông thấy các sự dữ của kẻ khác cũng như sự dữ của chính mình. Hình khổ thứ sáu là sự đồng hành liên lỉ của Satan. Hình khổ thứ bảy là cái tuyệt vọng khủng khiếp, cái oán thù THIÊN CHÚA, các thóa mạ, các chúc dữ khốn nạn và xúc phạm.

Đó là những hình khổ mà các linh hồn bị trầm luân cùng chịu chung, nhưng cũng chưa phải là tột cùng của các thống khổ. Còn có những dằn vặt riêng biệt dành cho các linh hồn bị thống khổ vì tội phạm đến các giác quan. Mỗi linh hồn phạm tội dâm dục bị dằn vặt cách khủng khiếp và không thể nào mô tả cho hết. Rồi đến những tầng hầm kinh hoàng trong đó có các hình phạt khác nhau, không có hình phạt nào giống hình phạt nào. Có lẽ con đã phải chết tươi khi chứng kiến các hình khổ khủng kiếp dường ấy, nếu con không được nâng đỡ bởi sự hiện diện của THIÊN CHÚA ở khắp mọi nơi. Tội nhân biết rõ ràng tội phạm về nhục dục sẽ bị dày vò xâu xé mãi mãi muôn đời muôn kiếp.

Con mô tả tất cả những điu trên đây theo lệnh của THIÊN CHÚA, hầu cho không có bất cứ linh hồn nào có thể tự bào chữa khi nói rằng HỎA NGỤC không có, không hiện hữu, hay có thể nói rằng, chưa có ai từng vào HỎA NGỤC cũng như không người nào biết HỎA NGỤC như thế nào.

Con - nữ tu Faustina - theo lệnh THIÊN CHÚA, con đã vào sâu nơi vực thẳm của HỎA NGỤC với mục đích để nói về Hỏa Ngục cho các linh hồn biết và làm chứng rằng Hỏa Ngục có thật. Giờ đây con không thể không nói thêm điều này. THIÊN CHÚA ra lệnh cho con phải viết ra trên giấy. Các quỷ dữ bày tỏ nỗi oán thù lớn lao chống lại con, nhưng vì lệnh của THIÊN CHÚA, chúng bị bắt buộc phải vâng lời con. Điều mà con viết, thật ra chỉ là bóng mờ bên cạnh những gì con chứng kiến. Có một điều con nhận thấy - và đây cũng là con số đông đảo các linh hồn bị trầm luân - đó là bị rơi vào Hỏa Ngục vì không tin có Hỏa Ngục!

Khi con trở về với chính con, con vẫn chưa hoàn hồn về tất cả những gì khủng khiếp mà con trông thấy, với tư tưởng là các linh hồn bị trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục phải chịu khốn khổ biết là chừng nào. Vì lý do này mà con tha thiết cầu xin THIÊN CHÚA ban ơn hoán cải cho các tội nhân. Con van xin Lòng Từ Bi THIÊN CHÚA hãy thương xót họ. Ôi lạy Đức Chúa GIÊSU Chí Ái của lòng con, con thà chịu hấp hối cho đến ngày tận thế với những dằn vặt khủng khiếp nhất, hơn là xúc phm đến Chúa cho dù chỉ là một tội nhẹ nhất.

... Khi ấy Đức Chúa GIÊSU phán rằng: ”Nếu tay hoặc chân con làm cớ cho con vấp ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đi đời. Nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã, thì hãy móc mắt mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục ... Khốn cho các ngươi, hi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Đồ mãng xà, nòi rắn đc kia! Các ngươi trn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?” (Matthêu 18,8-9/23,29+33).

Nhà khoa học nói về cuộc sống sau khi chết

Cõi Vô Hình

Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.

 Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề : 
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…

Pháp sư thản nhiên :

- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.

- Như thế ông tin rằng có ma…

Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :

- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.

- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?

- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?

- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …

- Được lắm, các ông hãy nhìn đây.

Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả :

- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.

Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy :

- Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?

Vị pháp sư nghiêm giọng :

- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.

- Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi.

Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này.

Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn.

Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng.

Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú.

Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được.

Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt.

Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng.

Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. 

Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?

Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :

- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford …

Giáo sư Harding giật mình kêu lên :

- Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?

- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.

(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).

- Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?

- Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó ta
y. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ.

Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.

Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :

- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?

- Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lớn là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…

- Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?

- Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…..

- Như thế có nguy hiểm không?

- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….

- Ông có thể làm như vậy không ?

Vị pháp sư nghiêm mặt :

- Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.

- Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.

- Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự.

Luật thiên nhiên cho thấy vật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới.

Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.

Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.

Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v.v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.

Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v.v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v.v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”.

Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến.

Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”.

Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.

Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia.

Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng. Tại đây có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm đục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại.

 Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tế nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn.

- Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ?

- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.

Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào.

Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. 

Hamud mỉm cười tiếp tục :

- Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ.

 Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía.

 Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì?

Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử.

Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.

Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ?

Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn.

Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm.

Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả kỷ, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.

- Nhưng còn các ma quỷ thì sao ?

- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc.

Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :

- Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác
, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa?

Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.

Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :

- Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?

- Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoan.

Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả.

Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết.

Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi.

 Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.

Giáo sư Allen ngập ngừng :

- Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?

Hamud lắc đầu :

- Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được.

Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển.

Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. 

Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thỏa mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.

- Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa mãn không ?

- Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thỏa mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.

- Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?

Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là ma. Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều. 

- Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?

- Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.”

- Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ?

- Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.

- Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ?

- Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả. 

- Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ?

- Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.

- Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?

- Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát.

Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến.

- Ông du hành sang cõi âm thế nào ?

- Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm.

Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.

- Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?

- Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động.

Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết.

Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp.

Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu.

Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở.

Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ.

Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được.
Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát…

- Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?

Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.

- Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?

Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.

- Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ?

- Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ?

Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất.

Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được.

Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.

- Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ?

- Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ ki.